Bà Lan, 65 tuổi, ngụ tại quận Phú Nhuận, TP.HCM, phát hiện mắc bệnh ung thư vú trái năm 2002. Để ngăn chặn di căn, cô buộc phải cắt bỏ vú và nạo bỏ hạch nách bên trái. Sau một thời gian, tái khám không tìm thấy tế bào ung thư xâm lấn các cơ quan khác. Tuy nhiên, cánh tay trái ngày càng sưng tấy. Khi cô Lan đến bệnh viện Pingdan, kích thước của cánh tay trái của cô lớn gấp đôi bàn tay còn lại của cô.
Bác sĩ chẩn đoán chị Lan bị biến chứng sau khi điều trị phù mạch. -Bệnh nhân ung thư chân voi phù nề sau phẫu thuật. Ảnh do bác sĩ cung cấp. – Bác sĩ Nguyễn Văn Phụng, giảng viên Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình – Thể hình, Đại học Y Dược TP.HCM cho biết, phù bạch huyết hay còn gọi là phù tay voi là một biến chứng thường gặp sau điều trị ung thư vú. Tỷ lệ phù bàn tay voi ở bệnh nhân ung thư vú chiếm từ 5% đến 10%.
Hệ thống bạch huyết có vai trò vận chuyển nước, bạch cầu và protein. .. Trong toàn bộ cơ thể, nó cung cấp dinh dưỡng cho các mô, đồng thời chống lại và bài tiết vi khuẩn, vi rút.
Phẫu thuật cắt bỏ hoặc xạ trị có thể tiêu diệt các tế bào ung thư vú ác tính, do đó phá hủy hệ thống bạch huyết và bạch huyết của máu và làm tắc nghẽn mạch máu. Các nút này thậm chí cần được loại bỏ để ngăn chặn sự lây lan của các tế bào ác tính. Dịch bạch huyết vốn lưu thông ban đầu bị tắc nghẽn, khiến các mô xung quanh bị tích tụ, gây phù nề.
Triệu chứng phổ biến nhất của phù tay voi là sưng dần một hoặc cả hai cánh tay từ xương vai đến các ngón tay. Đầu tiên sẽ có hiện tượng bàn tay voi bị sưng và mềm. Theo thời gian, nó sẽ dày hơn và cứng hơn, khiến da của người bệnh trở nên nổi hạt. Người bệnh có thể cảm thấy đau, nặng tay, chân hoặc hạn chế cử động của chi bị ảnh hưởng, gây khó khăn khi vận động hoặc thực hiện các hoạt động khác. -Phù tay thường được chia thành bốn giai đoạn. Ở hai giai đoạn 0 và I, bệnh này không được biểu hiện rõ ràng. Bệnh nhân không bị phù hoặc rất nhẹ. Thận trọng sưng tay. Nó có thể được phục hồi một cách tự nhiên. Do phản ứng với vi khuẩn và các vật thể lạ làm giảm khả năng miễn dịch, nên giai đoạn này thường bị nhiễm trùng da.
Ở giai đoạn muộn, bệnh tiến triển đến mức thay da vĩnh viễn. Rất khó giữ vùng da bị tổn thương bằng hai ngón tay vì da bị sưng và cứng. Mô có nhiều xơ và tăng thể tích, dẫn đến những thay đổi trên da như u nhú, nang lông, nứt nẻ và dày sừng. Các nếp gấp da sâu hơn ở cổ tay.
Bệnh phù bạch huyết vẫn có thể chữa khỏi hoàn toàn nếu thời gian mổ chưa quá muộn. Tùy theo giai đoạn bệnh, tổn thương hệ bạch huyết mà phương pháp điều trị khác nhau mà tỷ lệ thành công có thể lên tới 80-90%.
Bác sĩ Feng gợi ý rằng việc điều trị phù bạch huyết bao gồm điều trị ngoại khoa (phẫu thuật) và thuốc hỗ trợ. Phẫu thuật hiện nay chủ yếu sử dụng phương pháp nối bạch huyết – tĩnh mạch hoặc cấy ghép hạch để phục hồi lưu thông bạch huyết. Các can thiệp y tế hỗ trợ bao gồm chăm sóc da và móng, xoa bóp dẫn lưu bạch huyết, băng ép và vật lý trị liệu (liệu pháp chống tắc nghẽn hoàn toàn). Ứng dụng sớm trong y học hoặc điều trị bổ trợ sau phẫu thuật.
Tuy nhiên, bệnh nhân thường khám ở giai đoạn muộn hơn, bạch huyết bị xơ hóa rất nặng, điều trị rất hiệu quả. — Tiến sĩ Feng, phù bạch huyết là một hậu quả khủng khiếp của việc điều trị ung thư vú. Đối với bệnh nhân, điều này gây khó chịu vì phù mạch cục bộ không thể che bằng quần áo bình thường. Người bệnh mất tự tin, suy nhược cơ thể, tinh thần mệt mỏi… chất lượng cuộc sống kém.
Ngoài ra, phù mạch có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm, chẳng hạn như nhiễm trùng lặp đi lặp lại (viêm bạch huyết), và trong một số trường hợp hiếm hoi là ung thư.
Do đó, các bác sĩ khuyên bạn nên ngăn ngừa phù bạch huyết và tầm soát yếu của liệu pháp vật chủ có thể được sử dụng để phát hiện sớm ung thư. Điều này có thể làm giảm các can thiệp ảnh hưởng đến hệ bạch huyết, chẳng hạn như bóc tách hạch bạch huyết và xạ trị. Nếu tình trạng sưng ở tay hoặc chân không biến mất sau khi điều trị ung thư vú, bệnh nhân nên đến cơ sở đặc biệt để khám.
No comment yet, add your voice below!