Bác sĩ Nguyễn Việt Cường thuộc Khoa Khám bệnh Bệnh viện Ung bướu Hà Nội cho biết, hạch ở nách là hạch nằm ở nách có chức năng bảo vệ cơ thể con người. Ở người bình thường, ở mỗi nách có 20-40 hạch.
Thông thường, bạch huyết từ vú, một phần bụng, cánh tay và cổ đi qua các hạch bạch huyết này và sau đó đi vào hệ thống tuần hoàn. Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể người, chúng sẽ được dòng bạch huyết mang đến các hạch bạch huyết. Các tế bào bạch cầu nằm trong các hạch bạch huyết tấn công và tiêu diệt mầm bệnh. Thông thường, các hạch bạch huyết này hầu như không thể chạm tới được. Một số trường hợp hạch ở nách sưng tấy, to lên và gây đau nhức.
Các triệu chứng nổi hạch ở nách bao gồm lành tính và ác tính. Vì vậy, khi thấy biểu hiện đau nhức hoặc dai dẳng kéo dài, bạn nên tìm gặp chuyên gia uy tín để chẩn đoán nguyên nhân và điều trị nhanh chóng.
Gây nổi hạch nách
Trẻ sau khi tiêm vắc xin BCG có thể phòng một số bệnh lao, vài tuần đến vài tháng có thể xuất hiện hạch nách trái, tương ứng với bên tiêm phòng. Hầu hết các hạch này không gây đau, không sốt, không có mủ và tự biến mất. Một số hạch phản ứng sưng tấy, đỏ, có khi chảy mủ khiến trẻ sốt, đau và khó quấy khóc. Lúc này, bạn nên đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để được khám và tư vấn.
Những người bị nhiễm và bị nhiễm bệnh cũng sẽ nổi hạch. Đây là nguyên nhân phổ biến nhất, bao gồm cả nhiễm trùng cấp tính và mãn tính. Tình trạng viêm, lở loét trên da nách và các vùng lân cận (như vú, cánh tay, bàn tay) có thể gây sưng và đau các hạch bạch huyết ở nách, gọi là hạch phản ứng. Thông thường, các hạch bạch huyết này sẽ thu nhỏ lại khi điều trị khỏi hoàn toàn nguyên nhân nhiễm trùng. Tình trạng nhiễm trùng kéo dài hoặc điều trị không đúng cách có thể gây áp xe, tạo mủ và dịch viêm nhiễm bên trong.
Trong số các bệnh nhiễm trùng mãn tính, phổ biến nhất là bệnh lao, các hạch này sẽ không biến mất mà vẫn tồn tại, số lượng và kích thước sẽ tăng lên. Các nốt này tụ lại với nhau thành từng đám và bám chặt vào các mô xung quanh hạn chế di chuyển.
Một số bệnh truyền nhiễm khác cũng có thể gây nổi hạch, chẳng hạn như AIDS, bệnh brucella và ung thư. – Một số bệnh ung thư gây di căn hạch nách, chẳng hạn như ung thư hạch Hodgkin và ung thư hạch không Hodgkin, ung thư vú, u ác tính và bệnh bạch cầu cấp tính. Hạch to lên nhưng giảm đau, đôi khi kèm theo mệt mỏi kéo dài, sốt không rõ nguyên nhân, đổ mồ hôi đêm, sụt cân, đôi khi sờ thấy khối u ở vú… Các triệu chứng này không phải lúc nào cũng rõ ràng và điển hình.
Để xác định xem hạch ở nách có phải ác tính hay không, thường phải thực hiện chọc hút bằng kim siêu nhỏ (FNA) để lấy mẫu tế bào và quan sát dưới kính hiển vi, hoặc sinh thiết các nốt để hình thành bệnh lý. -Tui’an
No comment yet, add your voice below!