Sỏi thận – căn bệnh phổ biến ở người Việt Nam

Phó giáo sư Vũ Lê Chuyên, Chủ tịch Hội Thận học – Thận học Việt Nam, bày tỏ thông tin trên vào ngày 22/8. Sỏi tiết niệu có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của đường tiết niệu như thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo nam giới. Niệu đạo của nữ giới ngắn nên không bị sỏi. Đây là những tinh thể rắn được hình thành từ các khoáng chất trong nước tiểu, bàng quang, thận và niệu đạo.

Nguy cơ bị sỏi tiết niệu thường phụ thuộc vào các yếu tố như địa lý, khí hậu và sức căng. Chủng tộc, chế độ ăn uống và di truyền. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm khiến tỷ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu ở Việt Nam ngày càng gia tăng, ở Việt Nam tỷ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu, nơi được mệnh danh là “vùng sỏi của thế giới” rất cao.

Sỏi thận là phổ biến nhất, có thể gây co thắt dạ dày, ứ nước trong thận, tiểu buốt … Những viên sỏi này, còn gọi là sạn, thường có kích thước khác nhau, tùy theo từng người. Có người bị hàng trăm viên sỏi thận. — Bệnh có nhiều lứa tuổi và giới tính.

Ngày nay, phương pháp điều trị sỏi thận đã được phát triển. Theo PGS Chuyên, khi sỏi thận còn nhỏ, người bệnh có thể điều trị bằng cách uống nhiều nước và dùng thuốc để làm tan hoặc tiêu sỏi. Đối với sỏi thận lớn không thể điều trị nội khoa thì cần lấy sỏi ngoài cơ thể, sỏi thận qua da, mổ nội soi hoặc mổ hở. Châu Âu không còn chủ yếu nhắc đến phương pháp điều trị sỏi thận của Hiệp hội Tiết niệu Hoa Kỳ mà thay vào đó là phương pháp mổ sỏi thận qua da, có nhiều ưu điểm. Phương pháp này đã được áp dụng tại các bệnh viện chuyên điều trị sỏi thận ở nhiều nơi trên thế giới và Việt Nam.

“Trong phẫu thuật sỏi thận qua da, bác sĩ tạo một đường dẫn ở vùng hông. Da”, PGS.TS. Phân tích cho thấy kênh khoảng một cm nên vết rạch da rất nhỏ, bác sĩ sẽ đưa dụng cụ vào kênh để phá vỡ các mảnh vụn và loại bỏ các mảnh nhỏ. Một vết rạch dài khoảng 15 cm được thực hiện ở hông, vết mổ làm hở cơ hông, tổn thương dây thần kinh, xương sườn thứ 12 và các mô xung quanh thận. Trong quá trình cắt đốt, toàn bộ người của đài bể thận hoặc mô thận được lấy sỏi ra ngoài, Nhiếp ảnh: Trần Nhung.

Tổn thương sau mổ khá lớn, đòi hỏi thời gian hậu phẫu lâu hơn, thời gian hồi phục và thời gian hậu phẫu cao hơn đau đớn. Sau khi mổ, các mô xơ dày sẽ hình thành xung quanh thận bị xâm lấn vào vùng này. Đối với những bệnh nhân có sỏi tái phát, khó vào lúc sau làm tăng nguy cơ tổn thương như chảy máu, nhiễm trùng, nhiễm trùng ruột, thoát vị vết mổ … – Phó Giáo sư đánh giá chuyên môn của việc đào thải sỏi qua da có vai trò quan trọng trong điều trị tái phát Sỏi thận. Kỹ thuật đào lỗ trực tiếp trên đá sẽ giúp giảm đau do vết mổ tiếp theo. Nó ít sang chấn, bảo tồn được chức năng thận, có thể phục hồi nhanh chóng sau phẫu thuật và nằm viện ngắn ngày. Phương pháp này không chỉ phù hợp với sỏi lớn mà còn điều trị thất bại hoặc tiết dịch quá nhiều.

Tuy nhiên, kỹ thuật này có nhiều biến chứng. Hướng dẫn của Hiệp hội Tiết niệu Châu Âu về tính toán đường tiết niệu năm 2018 đề cập đến một số biến chứng, bao gồm sốt, đầy hơi, chảy máu, chấn thương phổi, nhiễm trùng huyết, tổn thương cơ quan, tắc mạch và rò rỉ. Nước tiểu, tử vong.

Ấn bản năm 2020 của Campbell-Walsh-Wein Urology được coi là cẩm nang thế giới cho các bác sĩ tiết niệu “gối đầu giường”, ghi rõ: “Ngay cả những bác sĩ, những chuyên gia tiết niệu kinh nghiệm nhất cũng thực hiện lấy sỏi qua da Các biến chứng sẽ xảy ra muộn hơn, trong đó tỷ lệ biến chứng cao nhất là 7%, tỷ lệ biến chứng nhẹ cao nhất là 25%, tuy nhiên tỷ lệ mắc các biến chứng này thấp hơn so với mổ hở. Nguyên nhân chính dẫn đến việc lấy sỏi không thành công và các thiết bị sử dụng là sỏi thận không vào được đài thận, do máu có màu đen nên khó quan sát hình ảnh giải phẫu và sỏi.

Filed under: Các bệnh

No comment yet, add your voice below!


Add a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Comment *

Name
Email *
Website