Các nhà kinh tế nói rằng cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay rất khác với cuộc suy thoái năm 1930 và cuộc khủng hoảng năm 2009. Cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Ben Bernanke quy kết nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế. Bernanke từng nói: “Sự sụp đổ của hệ thống tài chính là nguyên nhân chính của cuộc Đại khủng hoảng và cuộc khủng hoảng 2007-2009”. Nhưng bây giờ “ngân hàng mạnh hơn và vốn tốt hơn”. Theo hầu hết các ước tính, cuộc suy thoái hiện nay có thể so sánh về quy mô và thời gian với cuộc khủng hoảng năm 2000 và cuộc suy thoái chính sau Chiến tranh thế giới thứ hai vào đầu những năm 1980. Ngày 24 tháng 10 năm 1929. Ngày hôm sau, hàng ngàn nhà đầu tư đã mất tiền trong vụ sụp đổ thị trường chứng khoán tồi tệ nhất trong lịch sử Phố Wall. Ảnh: AP .
Thật khó để so sánh với cuộc Đại suy thoái năm 1930, bởi vì hầu hết các dữ liệu được thu thập ngày nay không tồn tại để so sánh trong những năm 1930. Tuy nhiên, đây là một số thông tin sơ bộ, chẳng hạn như Chỉ số thương mại thế giới của Liên minh các quốc gia, dữ liệu nhà máy của Fed và hồ sơ quản lý tiến độ công việc. Trong những năm 1930, sản xuất công nghiệp đã giảm hơn một nửa và nó trở nên tối hơn từ năm 1937 đến 1938. Đồng thời, sản xuất giảm khoảng 15% trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2009 và 10% vào đầu những năm 1980.
Khi Covid-19 tấn công, sản xuất công nghiệp của Mỹ đã suy giảm sớm do chiến tranh. thương mại. Mặc dù nhiều nhà máy đóng cửa do nhu cầu giảm, một số nhà máy đã nhanh chóng chuyển sang nhà máy tiếp theo. Ví dụ, General Motors và Ford đã chuyển từ sản xuất xe hơi sang người hâm mộ. Các nhà máy vật tư y tế đang làm việc chăm chỉ để đáp ứng nhu cầu.
Từ 1929 đến 1933, nền kinh tế suy giảm trong 43 tháng liên tiếp. Tỷ lệ thất nghiệp đã đạt gần 25% trước khi giảm từ từ, nhưng nó vẫn ở mức trên 10% trong mười năm. Đồng thời, suy thoái kinh tế vào đầu những năm 1980 đã dẫn đến suy thoái kinh tế 16 tháng, trong khi cuộc khủng hoảng 2007-2009 đã giảm xuống còn 18 tháng. Trong thời gian này, nhiều nhà kinh tế tin rằng nếu virus được kiểm soát, nền kinh tế có thể phục hồi ngay cả trong năm nay hoặc đầu năm tới. Vào tháng 4 năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ sẽ đạt 14,7% và dự kiến sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, nhờ các mạng lưới an toàn như bảo hiểm thất nghiệp và lương hưu, người thất nghiệp ngày nay an toàn hơn.
“Nhiều người đang đau khổ. Sau một hoặc hai điểm, nền kinh tế sẽ không thể phục hồi. Sự giàu có có giá trị”, Bernanke nói. Ông nói: “Nhưng nếu chúng ta có thể kiểm soát virus này một cách hợp lý, nền kinh tế sẽ phục hồi rất nhiều và suy thoái sẽ ngắn hơn nhiều so với cuộc Đại suy thoái.” Quý II năm 2020 dự kiến sẽ là quý tồi tệ nhất đối với nhiều nền kinh tế. Kỳ vọng trung bình của Tạp chí Phố Wall đối với các nhà kinh tế là suy thoái kinh tế của Mỹ có thể đạt 25% trong quý này. Một số người thậm chí ước tính nó gần 50%.
“Do chính sách đóng cửa của chính phủ, nền kinh tế giảm đột ngột, rất nhanh và nhanh chóng. Và vì nền kinh tế quá đột ngột, nó đã tạo ra một con số rất cao”, Douglas Irwin nói. Một giáo sư tại Đại học Dartmouth đã nghiên cứu chính sách thương mại của Hoa Kỳ trong cuộc Đại khủng hoảng. Thay vào đó, ông nói, cách thế giới biến thành một cuộc Đại suy thoái là một sự suy giảm chậm và ổn định. Ông nói: “Đây là sự bóp nghẹt chậm của nền kinh tế. – Giống như cuộc Đại suy thoái, sự sụp đổ kinh tế ngày nay là toàn cầu, nhưng ở quy mô nhỏ hơn.” Gita Gopinas, nhà kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế Gô-loa). Tổ chức này ước tính rằng nền kinh tế đã giảm khoảng 10% trong cuộc Đại suy thoái và dự báo năm nay là khoảng 3%, và dự kiến sẽ tăng trưởng trở lại vào năm tới, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển trong cuộc Đại khủng hoảng giảm khoảng 16% và cuộc khủng hoảng hiện nay dự kiến Năm nay nó sẽ đạt khoảng 6%.
Một loạt sai lầm chính trị lớn trên thế giới đã làm trầm trọng thêm thời gian và mức độ nghiêm trọng của Đại suy thoái. Ví dụ, ngân hàng trung ương đang thắt chặt chính sách tiền tệ để duy trì tiêu chuẩn vàng, dẫn đến giảm phát, tăng giá trị nợ và giảm doanh thu.
Vào thời điểm đó , Chính phủ ban đầu cắt giảm chi tiêu để đối phó với sự sụt giảm doanh thu. Khi nền kinh tế suy thoái, các quốc gia dỡ bỏ các rào cản thương mại để bảo vệ các ngành công nghiệp.Ở đất nước họ. Tuy nhiên, do đó, nhu cầu toàn cầu đã giảm, khiến tình hình tồi tệ hơn.
Lần này, các ngân hàng trung ương trên thế giới đã nhanh chóng hạ lãi suất và đưa ra kế hoạch kích thích thị trường tín dụng. Chính phủ đã phê duyệt các kế hoạch chi tiêu lớn, bao gồm kế hoạch kích thích trị giá 2 nghìn tỷ đô la, để giúp các doanh nghiệp hoạt động và bảo vệ. Hơn nữa, các quốc gia đã không cố gắng phá vỡ các rào cản thương mại để đối phó với dịch bệnh này.
“Tôi không nói rằng tất cả các chính sách đều đúng, nhưng chúng tôi biết rằng sự chậm trễ này sẽ làm xấu đi nền kinh tế.” Về nhận xét của Catherine Mann, nhà kinh tế trưởng tại Citigroup. -Ping An (theo “Tạp chí Phố Wall”)